Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm. (Ảnh: quochoi.vn)
"Kính thưa Quốc hội, thưa các đồng chí lãnh đạo, nguyên lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các bậc lão thành cách mạng, các vị khách quốc tế, các quý vị đại biểu, thưa đồng bào, chiến sỹ và cử tri cả nước!
Hôm nay, Quốc hội khóa XV trọng thể khai mạc Kỳ họp thứ 8. Theo chương trình, đây là kỳ họp có khối lượng công việc lớn nhất kể từ đầu nhiệm kỳ đến nay và cũng là kỳ họp đầu tiên có trách nhiệm thể chế hóa Nghị quyết Hội nghị Trung ương 10 khóa XIII, khẩn trương đưa chủ trương của Đảng vào thực tiễn cuộc sống, giải quyết nhiều vấn đề quan trọng khác của đất nước, tạo tiền đề, chuẩn bị ngay về mọi mặt đưa đất nước bước vào kỷ nguyên mới - kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam.
Thay mặt lãnh đạo Đảng, Nhà nước, tôi trân trọng gửi tới các đồng chí lãnh đạo, nguyên lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các vị đại biểu Quốc hội, các vị khách quý, đại diện Đoàn ngoại giao, các tổ chức quốc tế dự phiên khai mạc kỳ họp và toàn thể cử tri, Nhân dân, đồng bào, chiến sĩ cả nước, đồng bào ta ở nước ngoài lời chào, lời chúc sức khỏe, hạnh phúc và thành công. Chúc kỳ họp thành công tốt đẹp.
Thưa các đồng chí và các quý vị,
Vừa qua, Hội nghị lần thứ 10 Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII đã thành công rất tốt đẹp; Bộ Chính trị, Ban Bí thư cũng đã tổ chức Hội nghị toàn quốc đến cấp cơ sở quán triệt, triển khai Nghị quyết Hội nghị Trung ương 10.
Với tinh thần đổi mới, đoàn kết, thống nhất rất cao, Hội nghị Trung ương 10 đã thảo luận quyết định nhiều nội dung quan trọng; thống nhất nhận thức và hành động để tập trung lãnh đạo, chỉ đạo tăng tốc, bứt phá, hoàn thành các mục tiêu, nhiệm vụ của nhiệm kỳ Đại hội XIII; chuẩn bị các công việc cho Đại hội XIV của Đảng.
Tại hội nghị, Ban Chấp hành Trung ương đã đánh giá: Từ đầu nhiệm kỳ Đại hội XIII đến nay, tình hình thế giới, khu vực có nhiều diễn biến phức tạp, có vấn đề vượt dự báo, chưa từng có tiền lệ, đặt ra nhiều khó khăn, thách thức rất lớn đối với nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng từ trần là mất mát to lớn, để lại niềm tiếc thương vô hạn trong đồng bào và chiến sĩ cả nước.
Trong bối cảnh đó, Đảng ta đã thể hiện bản lĩnh kiên cường, là một khối thống nhất về ý chí và hành động, sớm kiện toàn lãnh đạo Đảng, Nhà nước với sự đồng thuận cao, từ đó lãnh đạo, chỉ đạo cả hệ thống chính trị nỗ lực, cố gắng, tiếp tục đạt được những thành tựu to lớn, toàn diện trên các lĩnh vực.
Các mục tiêu, nhiệm vụ chủ yếu của năm 2024 cơ bản hoàn thành và vượt so với chỉ tiêu đề ra, trong đó có nhiều điểm sáng tích cực.
Chính trị xã hội ổn định; tăng trưởng kinh tế đạt mức cao so với khu vực và thế giới, các cân đối lớn được bảo đảm (chúng ta tăng lương nhưng không làm tăng giá), thu hút đầu tư nước ngoài tăng cao; văn hóa, xã hội tiếp tục phát triển, đời sống vật chất và tinh thần của Nhân dân ngày càng được đáp ứng tốt hơn (các phong trào xóa đói, giảm nghèo, xóa nhà tạm, nhà dột nát, hỗ trợ Nhân dân khắc phục hậu quả cơn bão Yagi đã thể hiện bản chất tốt đẹp của chế độ ta, tinh thần tương thân tương ái, tình dân tộc, nghĩa đồng bào được khơi dậy mạnh mẽ trong lúc khó khăn).
Tiềm lực quốc phòng, an ninh được tăng cường, Tổ quốc được bảo vệ vững chắc; quan hệ đối ngoại tiếp tục được mở rộng và nâng tầm, thể hiện sự chủ động đóng góp tích cực của Việt Nam vào nền chính trị thế giới, kinh tế toàn cầu và nền văn minh nhân loại.
Những thành tựu quan trọng đó đã củng cố thêm cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế của đất nước qua 40 năm đổi mới, tạo nên diện mạo mới, thế và lực mới để chúng ta có thể tự chủ, tự tin, tự lực, tự cường, tự hào dân tộc đưa đất nước bước vào kỷ nguyên vươn mình trong thời gian tới.
Trong thành tựu chung của đất nước, có đóng góp rất quan trọng của Quốc hội nói chung, Quốc hội khóa XV nói riêng. Trong thời gian qua, hoạt động của Quốc hội đã có nhiều đổi mới, thực chất và hiệu quả hơn.
Quốc hội ngày càng phát huy vai trò là cơ quan đại biểu cao nhất của Nhân dân, cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất với 3 chức năng quan trọng:
(i) Về lập pháp, từ đầu nhiệm kỳ đến nay, Quốc hội đã thông qua 43 luật, hơn 60 nghị quyết; Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã ban hành 45 nghị quyết và 3 pháp lệnh.
Ngay trong Kỳ họp thứ 8 này, Quốc hội dự kiến tiếp tục thông qua 15 dự luật, 3 Nghị quyết quy phạm pháp luật và cho ý kiến 13 dự thảo luật, trong đó 1 luật sửa 3 luật trong lĩnh vực đầu tư; 1 luật sửa 7 luật trong lĩnh vực tài chính, quản lý tài sản, có những dự án luật rất mới phù hợp với xu thế phát triển như Luật Dữ liệu và Luật Công nghiệp công nghệ số, thể hiện tinh thần trách nhiệm rất cao của Quốc hội, Chính phủ đã khẩn trương quán triệt, triển khai thực hiện ngay chủ trương Hội nghị Trung ương 10.
Các văn bản này góp phần quan trọng hoàn thiện hệ thống pháp luật, tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, khắc phục điểm nghẽn, điều chỉnh các mặt của đời sống kinh tế - xã hội, bảo đảm quyền con người và phục vụ phát triển đất nước.
(ii) Hoạt động giám sát của Quốc hội không ngừng được cải tiến, tập trung vào những vấn đề bức xúc của cuộc sống, góp phần hoàn thiện chính sách, pháp luật, bảo đảm kỷ luật, kỷ cương, thúc đẩy các cơ quan Nhà nước thực hiện tốt hơn các nhiệm vụ.
Quốc hội đã đồng hành cùng Chính phủ quyết định, ban hành kịp thời nhiều chủ trương, chính sách quan trọng, có ý nghĩa lớn đối với phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, chăm lo đời sống Nhân dân, nhất là trong những thời điểm khó khăn như dịch COVID-19.
(iii) Đối ngoại của Quốc hội được mở rộng với nhiều hoạt động nổi bật, Quốc hội được bầu vào nhiều vị trí quan trọng tại các diễn đàn lớn và uy tín trên thế giới.
Tuy nhiên, thẳng thắn nhìn nhận, trong tổ chức và hoạt động của Quốc hội vẫn còn những tồn tại, hạn chế cần sớm được khắc phục. Trong 3 điểm nghẽn lớn nhất hiện nay là thể chế, hạ tầng và nhân lực, thì thể chế là "điểm nghẽn" của "điểm nghẽn".
Chất lượng xây dựng, hoàn thiện pháp luật chưa đáp ứng yêu cầu thực tiễn, một số luật mới ban hành đã phải sửa đổi; các quy định chưa thực sự đồng bộ, còn chồng chéo, nhiều quy định còn khó khăn, cản trở việc thực thi, gây thất thoát, lãng phí các nguồn lực; chưa tạo môi trường thực sự thuận lợi để thu hút nguồn lực của các nhà đầu tư trong và ngoài nước, khơi thông nguồn lực trong dân.
Thủ tục hành chính còn rườm rà, dịch vụ công trực tuyến tuy đã được cải tiến nhưng chưa thuận tiện, thông suốt; tổ chức thực thi pháp luật, chính sách vẫn là khâu yếu. Phân cấp, phân quyền chưa triệt để, chưa rõ trách nhiệm; sắp xếp, kiện toàn tổ chức bộ máy hành chính Nhà nước tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, giảm đầu mối, giảm cấp trung gian còn bất cập, một bộ phận còn cồng kềnh, chồng chéo giữa lập pháp và hành pháp, chưa thực sự đáp ứng yêu cầu nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước.
Những tồn tại, hạn chế kéo dài nhiều năm cần khẩn trương khắc phục, không để cản trở phát triển, gây lãng phí, lỡ thời cơ phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới. Đây là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, nhưng trọng trách rất lớn đặt lên vai của Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội, các vị đại biểu Quốc hội và Chính phủ.
Ngoài ra, qua công tác cho thấy, các thế lực thù địch, phản động luôn triệt để lợi dụng quá trình xây dựng, hoàn thiện thể chế, pháp luật để tác động, hướng lái, thậm chí chống phá, xác định đây là con đường "ngắn nhất", "nhanh nhất" để chuyển hóa chính trị của Việt Nam; các loại tội phạm, các nhóm lợi ích cũng tìm cách tác động nhằm trục lợi, nếu không thật sự sáng suốt, bản lĩnh, vì sự nghiệp chung, thể chế không phù hợp có thể gây ra những khúc quanh đối với sự phát triển của đất nước.
Toàn cảnh Kỳ họp thứ 8, Quốc hội khóa XV. (Ảnh: quochoi.vn)
Từ những vấn đề nêu trên, để đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới, tôi trân trọng đề nghị Quốc hội tiếp tục đổi mới mạnh mẽ tổ chức và hoạt động theo tinh thần Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 9/11/2022 của Hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới. Trong đó, tập trung nhấn mạnh 3 vấn đề:
Thứ nhất,đổi mới mạnh mẽ công tác lập pháp, trong đó:
(i) Chuyển đổi tư duy xây dựng pháp luật theo hướng vừa bảo đảm yêu cầu quản lý Nhà nước vừa khuyến khích sáng tạo, giải phóng toàn bộ sức sản xuất, khơi thông mọi nguồn lực để phát triển. Tư duy quản lý không cứng nhắc, dứt khoát từ bỏ tư duy "không quản được thì cấm".
(ii) Các quy định của pháp luật phải mang tính ổn định, có giá trị lâu dài; luật chỉ quy định những vấn đề khung, những vấn đề có tính nguyên tắc; không cần quá dài. Những vấn đề thực tiễn biến động thường xuyên thì giao Chính phủ, địa phương quy định để bảo đảm linh hoạt trong điều hành. Tuyệt đối không hành chính hóa hoạt động của Quốc hội; luật hóa các quy định của Nghị định và Thông tư.
(iii) Đổi mới quy trình xây dựng, tổ chức thực hiện pháp luật. Bám sát thực tiễn, đứng trên mảnh đất thực tiễn Việt Nam để xây dựng các quy định pháp luật phù hợp; vừa làm vừa rút kinh nghiệm; không nóng vội, nhưng cũng không cầu toàn, để mất thời cơ; lấy người dân, doanh nghiệp làm trung tâm, chủ thể; thường xuyên đánh giá hiệu quả, chất lượng chính sách sau ban hành để kịp thời điều chỉnh bất cập, mâu thuẫn, giảm thiểu thất thoát, lãng phí các nguồn lực; chủ động phát hiện và tháo gỡ nhanh nhất những “điểm nghẽn” có nguyên nhân từ các quy định của pháp luật.
(iv) Đẩy mạnh phân cấp, phân quyền với phương châm "địa phương quyết, địa phương làm, địa phương chịu trách nhiệm"; cải cách triệt để thủ tục hành chính, giảm chi phí tuân thủ, tạo thuận lợi cao nhất cho người dân và doanh nghiệp.
(v) Tập trung kiểm soát quyền lực trong xây dựng pháp luật, siết chặt kỷ luật, kỷ cương, đề cao trách nhiệm, nhất là trách nhiệm người đứng đầu, kiên quyết chống tiêu cực, "lợi ích nhóm".
(vi) Chủ động, tích cực, khẩn trương xây dựng hành lang pháp lý cho những vấn đề mới, xu hướng mới (nhất là những vấn đề liên quan đến cách mạng công nghiệp 4.0, trí tuệ nhân tạo, chuyển đổi số, chuyển đổi xanh…) tạo khung khổ pháp lý để thực hiện thành công cuộc cách mạng về chuyển đổi số, tạo đột phá cho phát triển đất nước trong những năm tiếp theo.
Thứ hai,thực hiện tốt hơn nữa chức năng giám sát tối cao và quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước.
Cần sớm nghiên cứu xác định rõ phương pháp, hình thức giám sát tối cao của Quốc hội phù hợp với thực tiễn, tránh trùng dẫm với hoạt động của các cơ quan Nhà nước khác gây lãng phí. Tiếp tục nâng cao chất lượng hoạt động chất vấn, giải trình, giám sát văn bản pháp luật; chú trọng theo dõi, xem xét, đôn đốc việc thực hiện các kiến nghị sau giám sát.
Đổi mới quy trình quyết định về ngân sách Nhà nước bảo đảm thực chất, đi đôi với giám sát việc thực hiện ngân sách, từng bước thay thế việc ban hành các nghị quyết bằng các đạo luật về tài chính, ngân sách.
Tại kỳ họp này, khối lượng các công việc về giám sát và quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước cũng rất lớn, thực tiễn đang đặt ra, cử tri đang mong chờ (như đánh giá tình hình kinh tế - xã hội năm 2024 và nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, tài chính, ngân sách năm 2025; giám sát chuyên đề "Việc thực hiện chính sách quản lý thị trường bất động sản và phát triển nhà ở xã hội từ năm 2015 đến hết năm 2023"; xem xét quyết định chủ trương đầu tư Chương trình mục tiêu quốc gia về phát triển văn hóa, đầu tư dự án đường sắt tốc độ cao Bắc - Nam, thành lập thành phố Huế trực thuộc Trung ương…), đề nghị Quốc hội, các vị đại biểu Quốc hội phát huy vai trò, trách nhiệm của mình trong thảo luận và quyết định những vấn đề quan trọng này.
Thứ ba,đổi mới mạnh mẽ tổ chức, hoạt động của Quốc hội, bảo đảm hoạt động hiệu lực, hiệu quả; nâng cao chất lượng, hiệu quả thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của đại biểu Quốc hội, coi đây là một trong những yếu tố then chốt của then chốt để đổi mới hoạt động của Quốc hội.
Hoạt động của Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội, đại biểu Quốc hội phải "đúng vai, thuộc bài"; phân định rõ chức năng, nhiệm vụ và quan hệ giữa các cơ quan, nhất là các cơ quan của Quốc hội và Chính phủ, bảo đảm chặt chẽ, hài hoà trong quy trình quản trị quốc gia.
Quốc hội và các vị đại biểu Quốc hội cần thống nhất cao và gương mẫu, đi đầu, đóng góp tích cực, quan trọng xây dựng thể chế phát triển của đất nước với tinh thần đổi mới, cải cách, hết lòng, hết sức phụng sự Tổ quốc, phục vụ Nhân dân; thường xuyên tu dưỡng, rèn luyện, giữ gìn phẩm chất đạo đức, kỷ luật, kỷ cương, nâng cao trình độ và năng lực công tác; giữ mối liên hệ chặt chẽ, phản ánh trung thực ý kiến, kiến nghị của cử tri và chịu sự giám sát của cử tri.
Luôn khắc cốt ghi tâm và thực hiện cho bằng được căn dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại đối với đại biểu Quốc hội "phải ra sức giữ vững nền độc lập cho Tổ quốc, ra sức mưu cầu hạnh phúc cho đồng bào, phải luôn luôn ghi nhớ và thực hành câu: Vì lợi nước, quên lợi nhà; vì lợi chung, quên lợi riêng".
Sắp xếp, kiện toàn Hội đồng dân tộc và các Ủy ban, các cơ quan của Quốc hội bảo đảm hoạt động hiệu lực, hiệu quả. Tiếp tục mở rộng và nâng cao hiệu quả công tác đối ngoại của Quốc hội, góp phần nâng cao vai trò, vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế.
Thưa các đồng chí và các quý vị,
Thế giới đang trong thời kỳ thay đổi có tính thời đại, đất nước đang đứng trước cánh cửa lịch sử để bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc. Thực tiễn nóng bỏng của đất nước đang đặt ra những vấn đề cấp bách cần giải quyết.
Nhân dân đang mong chờ và kỳ vọng vào những quyết sách của Đảng, Nhà nước và Quốc hội. Tôi đề nghị Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội, các vị đại biểu Quốc hội phát huy tinh thần đoàn kết, trách nhiệm, đổi mới, bứt phá hoàn thành xuất sắc trọng trách của mình, góp phần cùng toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đoàn kết phấn đấu, sớm xây dựng thành công nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa, sánh vai với các cường quốc năm châu như tâm nguyện của Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại và ước vọng của toàn dân tộc.
Một lần nữa, xin chúc sức khỏe các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam; các vị đại biểu Quốc hội, các vị khách quý, các đại biểu quốc tế cùng toàn thể các đồng chí, đồng bào, cử tri cả nước và đồng bào ta ở nước ngoài.
Xin trân trọng cảm ơn!"
Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm" alt=""/>Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm: Dứt khoát từ bỏ tư duy 'không quản được thì cấm'PGS Nguyễn Viết Thảo - nguyên Phó Giám đốc Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh
“Kỷ nguyên vươn mình” là kết quả tất yếu của những bước đi thành công trước đây
- Thưa PGS Nguyễn Viết Thảo, ông hiểu thế nào về cụm từ “kỷ nguyên vươn mình” trong tiến trình phát triển của đất nước chúng ta?
Vừa qua, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm đã đưa ra thông điệp chính thức về kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam. Chúng ta có thể hiểu một số nội dung rất cơ bản của khái niệm này.
Kỷ nguyên vươn mình đánh dấu thời kỳ phát triển mới của mỗi quốc gia dân tộc, đương nhiên là nó phải phù hợp với quy luật khách quan, phù hợp với tiến trình phát triển chung của nhân loại, đặc biệt phải phù hợp với quá trình phát triển của quốc gia dân tộc đó, phải tạo thành những dấu mốc rất rõ rệt, điển hình.
Đối với Việt Nam chúng ta, từ khi có Đảng lãnh đạo năm 1930 đến nay, chúng ta thấy rất rõ sự xuất hiện của các kỷ nguyên.
Sau 15 năm đấu tranh giải phóng dân tộc, chống thực dân phát xít và các thế lực phản động khác, đến năm 1945, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời, mở ra kỷ nguyên độc lập tự do cho dân tộc Việt Nam và cũng bắt đầu từ đây, một trang sử mới của đất nước, trang sử mà nhân dân lao động đứng lên làm chủ vận mệnh của mình dưới sự lãnh đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Kỷ nguyên này không chỉ có ý nghĩa với dân tộc Việt Nam mà còn có ý nghĩa quốc tế, thời đại rất lớn, góp phần tạo ra làn sóng cách mạng, mở ra kỷ nguyên chống thực dân đế quốc của nhiều nước thuộc địa, trở thành quốc gia độc lập.
Tiếp đó, chúng ta lại phải đương đầu với các cuộc xâm lược của thực dân đế quốc. Chúng ta thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược, vừa chống thực dân đế quốc, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước vừa xây dựng CNXH ở miền Bắc. Đến năm 1975, chúng ta đã giành thắng lợi hoàn toàn, mở ra một kỷ nguyên mới - kỷ nguyên cả nước đi lên CNXH.
Từ 1945-1975 là 3 thập kỷ mà Việt Nam có vai trò tiên phong trong đấu tranh vì những mục tiêu cao cả của thời đại là hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Có nhà thơ đã khắc họa rất chính xác tầm vóc chính trị của dân tộc Việt Nam trong kỷ nguyên này:
Cầm cành hoa Việt Nam
Chói ngời trong thế kỷ
Cầm cành đào chân lý
Ta đi qua thời gian
Kỷ nguyên thứ 3 là cả nước đi lên CNXH. Kỷ nguyên này rất quan trọng vì chỉ sau năm 1975, CNXH mới được thiết kế và xây dựng trong hoàn cảnh không còn chiến tranh trên phạm vi cả nước. Nhưng rất tiếc rằng, hệ thống XHCN lúc ấy bắt đầu lâm vào khó khăn, trì trệ, khủng hoảng. Bên cạnh những kết quả rất đáng trân trọng thì trong thời gian này, công cuộc xây dựng CNXH ở Việt Nam cũng gặp nhiều hạn chế và lâm vào khủng hoảng nặng nề.
Cho nên bắt đầu từ năm 1986, chúng ta phải đổi mới. Đổi mới tư duy nhận thức về CNXH và đổi mới con đường đi lên CNXH. Sau 10 năm đổi mới, đến năm 1996, nước ta cơ bản đã khắc phục được cuộc khủng hoảng về kinh tế - xã hội, bước vào thời kỳ mới của sự phát triển - thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá - hiện đại hoá và cũng chỉ mấy năm sau, đến năm 2010, chúng ta thoát khỏi tình trạng chậm phát triển để đứng vào danh sách các nước có thu nhập trung bình trên thế giới.
Như vậy, kể từ năm 2010, chúng ta đã bước vào kỷ nguyên mới - kỷ nguyên tạo tiền đề cho sự phát triển của Việt Nam trong thế giới mới, trong thời đại mới.
Sau những cột mốc ấy cho đến nay, chúng ta đã đạt được những thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử. Cơ đồ, vị thế, uy tín, sức mạnh đất nước chưa bao giờ có được như bây giờ. Chính những thành công trong kỷ nguyên tạo tiền đề này cho phép chúng ta bắt đầu nói đến một kỷ nguyên mới - kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam.
Tôi cho rằng, kỷ nguyên vươn mình này nó rất logic, khách quan, là kết quả tất yếu của những bước đi thành công trước đây. Nhìn nhận như vậy để thấy rằng, một kỷ nguyên mới đã thật sự mở ra cho dân tộc chúng ta - kỷ nguyên vươn mình, kỷ nguyên phát triển mạnh mẽ, phấn đấu trở thành quốc gia phát triển có thu nhập cao vào giữa thưa thế kỷ 21.
“Kỷ nguyên vươn mình” đặt trong bối cảnh thế giới có nhiều chuyển động mang tính thời đại
- Kỷ nguyên vươn mình của dân tộc đặt trong bối cảnh thế giới có gì khác so với trước đây và chúng ta đứng trước những cơ hội, thách thức gì, thưa ông?
Kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam sẽ phải đặt trong bối cảnh rất mới, đúng như Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm đã nói, đó là bối cảnh thế giới có nhiều chuyển động mang tính thời đại, tức là những chuyển động tầm cỡ thời đại, tác động trong dài hạn đến an ninh và phát triển của tất cả các quốc gia, dân tộc, trong đó có Việt Nam.
Thứ nhất là cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang tạo ra một thời đại kinh tế mới - kinh tế số. Khi kinh tế bước vào thời đại mới thì tất cả các lĩnh vực từ xã hội, văn hóa, an ninh chính trị đều phải có những chuyển động sâu sắc. Cuộc cách mạng công nghiệp chắc chắn sẽ tạo ra những vận động mang bước ngoặt của lịch sử toàn thế giới.
Chuyển động mang tính thời đại thứ hai, đó là toàn cầu hóa. Nó đã diễn ra trong những thập kỷ trước kia nhưng hiện nay và trong những thập kỷ tới, nó sẽ phong phú, mạnh mẽ và đương nhiên ngày càng phức tạp. Mặc dù nó đang bị một số thế lực cản trở nhưng toàn cầu hóa đủ sức khẳng định là một tất yếu, một xu thế, một quá trình không thể đảo ngược. Và chắc chắn nó làm cho thế giới không chỉ xích lại gần nhau mà càng ngày, thế giới càng bị nhất thể hóa. Tất cả các quốc gia, dân tộc, tất cả các chế độ chính trị xã hội khác nhau đều phải tuân thủ quy định chung, giá trị chung, luật pháp chung. Trong bối cảnh đó, mỗi quốc gia, dân tộc có phát triển được hay không tùy thuộc vào vị trí mà mình hội nhập và khai thác được ví trí ấy có lợi cho mình.
Chuyển động mang tính thời đại thứ ba mà tôi cho rằng, chúng ta tuyên truyền chưa xứng tầm, đó là phát triển bền vững như một mô hình phổ quát trên thế giới, bền vững cả về mặt kinh tế, cả về mặt văn hóa xã hội và môi trường sinh thái. Đó là sự phát triển rất toàn diện. Có rất nhiều vấn đề của phát triển không thể được đóng khung trong khuôn khổ của một quốc gia mà phải là xuyên quốc gia. Nó khác xưa rất nhiều. Phát triển bền vững ngày nay như một tất yếu, một mệnh lệnh không thể bị trì hoãn. Chúng ta phát triển theo mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH nhưng phải đặt trong khuôn khổ của phát triển bền vững.
Một chuyển động mang tính toàn cầu nữa, đó là chúng ta phải nhìn sang Chủ nghĩa tư bản (CNTB). Trong 1-2 thập kỷ vừa qua, CNTB đã có những bước điều chỉnh thích nghi, phát triển rất mạnh mẽ. Nhiều học giả đã nói lên một thời kỳ CNTB toàn cầu với sự hình thành của dây chuyền sản xuất tư bản toàn cầu, tư bản xuyên quốc gia, quyền lực Nhà nước tư bản ngày càng mang phạm vi thế giới, thậm chí người ta nói đến một giai cấp tư sản toàn cầu.
CNTB toàn cầu trong cái phiên bản rất quen thuộc là Chủ nghĩa tự do mới đã đạt được những thành tựu rất ấn tượng ở nhiều khu vực trên thế giới nhưng đồng thời nó lại bộc lộ những mâu thuẫn, hạn chế cố hữu không thể vượt qua. Đó là mâu thuẫn giữa tư bản và lao động, sự phân cực, loại trừ nhau, phân hóa xã hội sâu sắc… nó tạo ra mâu thuẫn giai cấp rất gay gắt, nghiêm trọng. Chính vì vậy, nhân dân lao động toàn thế giới đang đẩy mạnh những cuộc đấu tranh xã hội, phê phán CNTB trong phiên bản mới nhất của nó là Chủ nghĩa tự do mới.
Ngay trong lúc hoàng kim của CNTB và ngay trong thời điểm rất thuận lợi của CNTB khi không còn hệ thống XHCN thì CNTB vẫn không được nhân loại ngày nay chấp nhận như xã hội của tương lai. Mà khẩu hiệu rất hay của phong trào nhân dân toàn thế giới hiện nay, đó là tìm kiếm những phương án thay thế CNTB. Loài người sẽ phải định danh cụ thể hơn, đó là cái gì nhưng chắc chắn họ cho rằng, vượt qua CNTB hiện nay là một đòi hỏi rất rõ ràng của lịch sử.
Hiểu được thực tế trên để chúng ta vững tin, kiên định trên con đường độc lập dân tộc và Chủ nghĩa xã hội.
Một chuyển động mang tính toàn cầu sâu sắc nữa mang tính thời đại, đó là cải cách, đổi mới CNXH trên toàn thế giới với những thành công của Trung Quốc, Việt Nam, Lào, sự hiên ngang sáng tạo của Cuba… Chúng ta khẳng định rằng, CNXH vẫn là một thực thể không thể bỏ qua, một thực thể tham gia định hình thế giới hiện đại. Điều đó không chỉ giúp chúng ta vững tin mà còn gợi mở cho chúng ta những nội dung và phương hướng, nhiệm vụ để tiếp tục đẩy mạnh công cuộc đổi mới, đi đến mục tiêu cao cả mà chúng ta vạch ra cho giữa thế kỷ 21 là một quốc gia phát triển, có thu nhập cao.
Theo PGS Nguyễn Viết Thảo, phải khắc phục cho được nguy cơ tụt hậu xa hơn nữa về trình độ phát triển giữa ta và các nước trên thế giới.
Vươn mình để vượt qua bẫy thu nhập trung bình
- Vậy thưa ông, kỷ nguyên mới - kỷ nguyên vươn mình được hiểu là bắt đầu từ khi nào, phải chăng được đánh dấu từ Đại hội XIV của Đảng?
Tôi cho rằng, không phải đợi đến Đại hội XIV mà có thể hiểu, kỷ nguyên mới bắt đầu từ bây giờ, trong một bối cảnh thế giới có những chuyển động mang tính thời đại, trong bối cảnh chúng ta có gần 40 năm đổi mới với những thành tựu to lớn như thế và lực mới nhưng chúng ta cũng đứng trước rất nhiều những khó khăn, thử thách mà nhất thiết phải vượt qua. Tôi lấy ví dụ, trước hết phải vượt qua bẫy thu nhập trung bình - một cái bẫy vô cùng gay gắt và nghiệt ngã.
Đa số các quốc gia trên thế giới sau khi thoát nghèo là rơi vào bẫy thu nhập trung bình. Cho nên Việt Nam ta phải rất cố gắng để không bị rơi vào cái bẫy nghiệt ngã đó. Bẫy thu nhập trung bình là tình trạng phát triển không có tính đột phá của một quốc gia trong vòng 30 năm sau khi thoát nghèo. Nếu anh không hóa rồng, hóa hổ là anh mãi mãi rơi vào bẫy đó. Việt Nam ra khỏi tình trạng chậm phát triển vào năm 2010 đến nay đã được 14 năm. Theo lý thuyết, chúng ta còn 16 năm để bứt lên.
Trong khu vực Đông Nam Á, không ít quốc gia đã và đang rơi vào bẫy thu nhập trung bình. Cách đây 1-2 thập kỷ, họ hoan hỉ, hăm hở chào đón kỷ nguyên mới để trở thành một quốc gia phát triển nhưng cuối cùng họ đã không thành công.
Chúng ta nên nhớ, năm 1960, thu nhập bình quân của người dân Philippines gấp đôi người dân Nam Triều Tiên lúc ấy, nay là Hàn Quốc. Còn đến nay, chúng ta thấy Hàn Quốc và Philippines là hai trình độ phát triển như thế nào. Cái bẫy này nó không trừu tượng mà hiện hữu xung quanh ta. Cho nên phải khắc phục cho được nguy cơ tụt hậu xa hơn nữa về trình độ phát triển giữa ta và các nước trên thế giới.
Thứ hai là nguy cơ không đạt thành công trong việc thực hiện mục tiêu công nghiệp hoá - hiện đại hoá. 30 năm qua, từ năm 1991 đến năm 2021, chúng ta chưa đạt mục tiêu yêu cầu đề ra. Nếu không phấn đấu, không nỗ lực thì chúng ta tiếp tục không đạt mục tiêu đề ra cho công nghiệp hoá - hiện đại hoá.
Đây là yếu tố quyết định trình độ phát triển của đất nước. Chúng ta có trở thành quốc gia phát triển vào năm 2045 hay không phụ thuộc vào việc chúng ta có hoàn thành công nghiệp hoá - hiện đại hoá hay không. Đây là cơ sở, tiền đề vật chất kỹ thuật cho CNXH. Bởi vậy, nếu không thành công trong sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá tức là không thành công trong sự nghiệp xây dựng CNXH.
Tư duy chiến lược của Đảng lãnh đạo, cầm quyền nhất thiết phải kịp thời
- Bây giờ để vượt qua tất cả những thách thức này, Việt Nam chúng ta cần phải đi vào những đột phá gì, thưa ông?
Đột phá trước tiên là sự lãnh đạo của Đảng. Đảng ta là Đảng duy nhất lãnh đạo, cầm quyền, phải xây dựng kịp thời và sáng tỏ tầm nhìn mới - tầm nhìn của một quốc gia vươn mình trong thế giới đang thay đổi. Tầm nhìn này cực kỳ quan trọng. Đại hội XIII mới vạch ra những phác thảo về Việt Nam đến giữa thế kỷ 21. Đó là phác thảo và cần phải cụ thể hóa hơn để toàn đảng, toàn dân dốc sức thực hiện.
Đột phá thứ hai là phải có những tư duy chiến lược, được thực hiện bằng những chiến lược quốc gia. Tôi rất tâm đắc với một cách định nghĩa: Chiến lược luôn luôn là một sự lựa chọn, lựa chọn vào đúng đột phá, đúng trọng tâm, trọng điểm, đúng lợi thế, ưu thế của chúng ta. Điều này không phải dễ. Các nước trên thế giới và cả Việt Nam chúng ta cũng đã hơn một lần không xác định trúng lợi thế, ưu thế mũi nhọn.
30 năm công nghiệp hoá - hiện đại hoá từ năm 1991 đến năm 2021, chúng ta chưa đạt mục tiêu, yêu cầu đề ra. Một trong các nguyên nhân là do không xác định trúng mũi nhọn công nghiệp hoá, không xác định trúng ưu thế lợi thế của chúng ta. Cho nên tôi cho rằng, tư duy chiến lược của Đảng lãnh đạo, cầm quyền nhất thiết phải kịp thời, sáng tỏ, đúng đắn, phù hợp, khả thi.
Trong tư duy chiến lược, dứt khoát phải tìm ra con đường, mô hình công nghiệp hoá phù hợp với Việt Nam, tìm ra con đường công nghiệp hoá của nước đi sau như Việt Nam hiện nay gian nan lắm. Chúng ta có thể tham khảo, nghiên cứu kinh nghiệm của Nhật Bản, của Trung Quốc, mô hình của các nước Mỹ La tinh, các nước Đông Á….
Tôi cho rằng, chúng ta rất cần nghiên cứu các kinh nghiệm trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam. Đương nhiên, trong kỷ nguyên vươn mình này còn có nhiều vấn đề, không chỉ là kinh tế mà còn là những vấn đề văn hóa, xã hội, an ninh quốc phòng… Cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn, chiến tranh thế hệ mới, đe dọa an ninh truyền thống và phi truyền thống… Tất cả những cái đó thì phải rất sáng tỏ trong chiến lược bảo vệ Tổ quốc.
- Xin trân trọng cảm ơn ông!
Hương Giang - Lê Hoàng(VOV.VN)Link: https://vov.vn/chinh-tri/ky-nguyen-vuon-minh-cua-dan-toc-viet-nam-la-doi-hoi-tat-yeu-cua-lich-su-post1125468.vov
" alt=""/>'Kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam' là đòi hỏi tất yếu của lịch sử