Thủ tướng chỉ thị các bộ, ngành, địa phương, công ty xác định cấp độ an toàn hệ thống thông tin và triển khai phương án bảo đảm an toàn hệ thống thông tin theo cấp độ, theo quy định của pháp luật và tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật quốc gia khi triển khai các hệ thống thông tin có sử dụng camera giám sát.
Thủ tướng yêu cầu các cơ quan chức năng chỉ đạo các đơn vị trực thuộc khi đầu tư, mua sắm camera giám sát hoặc thuê dịch vụ công nghệ thông tin có sử dụng camera giám sát thực hiện kiểm tra, đánh giá an toàn thông tin mạng theo quy định.
Sử dụng camera giám sát đáp ứng các yêu cầu về bảo đảm an toàn thông tin mạng theo quy định. Không sử dụng camera giám sát không có chứng nhận xuất xứ, chất lượng sản phẩm hoặc đã được cơ quan có thẩm quyền cảnh báo không bảo đảm an toàn thông tin mạng.
Các cơ quan, đơn vị phải chịu trách nhiệm trước Thủ tướng nếu để xảy ra mất an toàn thông tin mạng, an ninh thông tin, lộ bí mật nhà nước từ các hệ thống thông tin có sử dụng camera giám sát thuộc phạm vi quản lý.
Thủ tướng giao Bộ TT&TT có trách nhiệm ưu tiên lồng ghép các nội dung tuyên truyền, hướng dẫn bảo đảm an toàn thông tin mạng cho camera giám sát.
Bộ cần xây dựng bộ tiêu chí về yêu cầu an toàn thông tin mạng cơ bản cho camera giám sát. Thời hạn hoàn thành tháng 3/2023.
Cùng với đó là ban hành quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về yêu cầu an toàn thông tin mạng cơ bản cho camera giám sát và tuyên truyền, phổ biến, tổ chức hướng dẫn áp dụng quy chuẩn kỹ thuật này. Thời hạn hoàn thành tháng 11/2023.
Công bố danh mục camera giám sát đáp ứng quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về yêu cầu an toàn thông tin mạng cơ bản cho camera giám sát.
Chủ trì tổ chức triển khai, hướng dẫn, đôn đốc, theo dõi, kiểm tra việc thực hiện các nội dung tại Chỉ thị này; báo cáo Thủ tướng Chính phủ kết quả thực hiện.
Xử lý nghiêm việc lợi dụng camera giám sát để xâm phạm an ninh quốc gia
Thủ tướng yêu cầu Bộ Công an có trách nhiệm tăng cường công tác phòng ngừa, đấu tranh và xử lý nghiêm theo quy định của pháp luật đối với các cơ quan, tổ chức và cá nhân lợi dụng camera giám sát để xâm phạm an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội.
Tổ chức đánh giá an ninh thông tin đối với hệ thống camera giám sát tại các công trình quan trọng liên quan đến an ninh quốc gia, các hệ thống thông tin quan trọng về an ninh quốc gia trước khi đưa vào vận hành, sử dụng.
Nghiên cứu, xây dựng quy định về việc thiết lập, quản lý, vận hành, bảo trì hệ thống camera phục vụ công tác đảm bảo an ninh trật tự của lực lượng Công an nhân dân để thống nhất thực hiện trên phạm vi toàn quốc.
Bộ Tài chính có trách nhiệm tăng cường quản lý hoạt động nhập khẩu camera giám sát theo quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về yêu cầu an toàn thông tin mạng cơ bản cho camera giám sát.
Bộ Công Thương có trách nhiệm tăng cường quản lý, kiểm tra hoạt động kinh doanh camera giám sát, không để các camera giám sát không đáp ứng quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về yêu cầu an toàn thông tin mạng cơ bản cho camera giám sát lưu thông trên thị trường; đấu tranh chống các hành vi vi phạm pháp luật về làm giả, nhập lậu camera giám sát.
Các doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh, nhập khẩu camera giám sát sản xuất hoặc kinh doanh, nhập khẩu camera giám sát đáp ứng quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về yêu cầu an toàn thông tin mạng cơ bản cho camera giám sát.
Doanh nghiệp sản xuất chủ động thông báo và cung cấp bản cập nhật, nâng cấp phần mềm cho camera giám sát khi phát hiện điểm yếu, lỗ hổng bảo mật; hợp tác, hỗ trợ khắc phục xử lý sự cố mất an toàn thông tin mạng, an ninh thông tin liên quan đến camera giám sát do doanh nghiệp sản xuất khi có yêu cầu của cơ quan có thẩm quyền.
Các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ viễn thông, Internet chủ động kiểm tra và xử lý các camera giám sát không bảo đảm an toàn thông tin mạng do doanh nghiệp cung cấp trên hạ tầng mạng lưới của doanh nghiệp.
Chưa hết, khác với các sản phẩm thuộc nhóm hàng công nghiệp (ô tô, điện thoại, máy tính, may mặc, giày dép, túi xách, máy móc phụ tùng) có giá trị gia tăng thấp, giá trị gia tăng của dịch vụ phần mềm xuất khẩu rất cao, lên đến 84%, cao gấp gần 4 lần giá trị gia tăng của nhóm hàng sản xuất hàng công nghiệp (một đôi giầy Nike sản xuất ở Việt Nam thì phần Việt Nam chỉ có 22% thôi, phần của Mỹ là 78%).
Như vậy có thể nói rằng, 1 tỷ USD xuất khẩu phần mềm tương đương với gần 4 tỷ USD xuất khẩu các mặt hàng máy tính, điện thoại, may mặc, giầy da, túi xách, máy móc, phụ tùng.
Tại sao dịch vụ phần mềm lại có giá trị gia tăng cao như vậy? Bởi làm dịch vụ phần mềm, không cần phải đầu tư dây chuyền sản xuất, không phải nhập khẩu (mua) nguyên, vật liệu đầu vào. Đầu tư cho phần mềm rất ít: Mỗi người làm phần mềm chỉ 1 chiếc máy tính và một chút bản quyền phần mềm cỡ 1200 USD, khấu hao 5 năm, mỗi năm 240 USD. Chi phí lớn nhất của dịch vụ phần mềm là chi phí nhân công (lương, thưởng, phúc lợi, bảo hiểm, văn phòng làm việc), toàn chi cho con người và chi ở Việt Nam.
Xuất khẩu phần mềm, ngoài việc mang trí tuệ Việt Nam ra thế giới, tạo ra nhiều công ăn việc làm có năng suất cao, còn thu ngoại tệ về cho đất nước, góp phần vào cán cân thanh toán quốc gia, góp phần vào ổn định tiền tệ quốc gia.
Bạn có biết, nếu một doanh nghiệp giữ được tốc độ tăng trưởng đều đặn 26% năm, thì sau 3 năm doanh số sẽ lớn gấp 2 lần, sau 6 năm sẽ lớn gấp 4 lần, sau 9 năm sẽ lớn gấp 8 lần và sau 12 năm sẽ lớn gấp 16 lần.
Như vậy nếu giữ được tốc độ tăng trưởng 26% năm như 5 năm qua, thì doanh số của FPT Software đến năm 2026 là 2 tỷ USD, đến năm 2029 là 4 tỷ USD, đến năm 2032 là 8 tỷ USD và đến năm 2035 là 16 tỷ USD. Điều ấy có nghĩa rằng đến năm 2035, giá trị mà FPT Software tạo ra sẽ tương đương với 64 tỷ USD nhóm hàng sản xuất công nghiệp.
Xuất khẩu phần mềm, ngoài FPT ra còn có hàng trăm doanh nghiệp phần mềm khác, tạo ra một ngành kinh tế có qui mô và ý nghĩa kinh tế, xã hội không hề nhỏ.
Đỗ Cao Bảo (Thành viên HĐQT Tập đoàn FPT)
" alt=""/>Khát vọng đầu năm: 1 tỷ USD phần mềm xuất khẩu