Hotgirl Wichooda Cheychom,ùngtuyệtchiêuphânbiệtvòngsilicongâysốlịch bóng đá đêm nay và ngày mai người Thái vừa gây sốt với đoạn clip phân biệt vòng 1 tự nhiên hay đã qua phẫu thuật thẩm mỹ.
Play
Hotgirl Wichooda Cheychom,ùngtuyệtchiêuphânbiệtvòngsilicongâysốlịch bóng đá đêm nay và ngày mai người Thái vừa gây sốt với đoạn clip phân biệt vòng 1 tự nhiên hay đã qua phẫu thuật thẩm mỹ.
Sitcom Mộng ước tương lai khắc họa quá trình khởi nghiệp của những thanh niên nhiều mơ ước nhưng lại không kiên định với con đường nghề nghiệp của mình, đứng núi này trông núi nọ, chê bai công việc truyền thống gia đình, muốn gây dựng sự nghiệp lớn lao, vĩ đại.
Bên cạnh những tình huống bi hài làm bật lên tiếng cười sảng khoái, Mộng ước tương laicũng khiến người xem cảm động với tình bạn, tình thân, tình yêu chân thành giữa các nhân vật trong phim.
Bộ phim phản ánh cuộc sống của những người trẻ dân tộc Khmer và người Kinh ở Nam bộ trong quá trình lập nghiệp, trưởng thành. Con đường này không trải hoa hồng. Có người mau chóng xác định được nghề nghiệp tương lai, có người phải chật vật, trải qua nhiều thử thách mới xác định được lý tưởng của bản thân mình.
Thông điệp của bộ phim là: “Trong thời đại 4.0 với nhiều ngành nghề và nhiều hoàn cảnh khác nhau, mỗi bạn trẻ sẽ có một lựa chọn đúng đắn sau tất cả những trải nghiệm, cố gắng, nỗ lực của bản thân mình. Mỗi người có một khởi điểm khác nhau, vì vậy không nên so sánh mình với người khác rồi bị áp lực hoặc bị áp đặt”.
Mộng ước tương lai hứa hẹn mang đến nhiều tiếng cười dí dỏm và sâu sắc, đầy tình cảm. Với khung giờ phim sitcom này, Đài PT và TH tỉnh Hậu Giang kỳ vọng sẽ mang đến thêm một món ăn tinh thần hấp dẫn và bổ ích, một khung giờ giải trí mới để phục vụ khán giả xem truyền hình với phương châm “Làm giàu tri thức – Kết nối cộng đồng”.
Ngân An
" alt=""/>Phim sitcom 'Mộng ước tương lai' khắc họa quá trình khởi nghiệp của giới trẻGS Trương Nguyện Thành, hiện đang giảng dạy tại Trường ĐH Utah (Mỹ) đồng thời là Viện trưởng Viện Khoa học và Công nghệ tính toán TP.HCM nhìn nhận như vậy trong cuộc trao đổi với VietNamNetnhân chuyện Thủ tướng Chính phủ vừa chỉ đạo các bộ ngành liên quan đề xuất các biện pháp thu hút và sử dụng du học sinh Việt Nam tốt nghiệp về nước làm việc.
GS Trương Nguyện Thành hiện đang làm việc tại Khoa Hóa, Trường ĐH Utah (Mỹ) đồng thời là Viện trưởng Viện Khoa học và Công nghệ tính toán TP HCM. Ảnh: FBNV |
Phóng viên: Thưa GS Trương Nguyện Thành, nhiều sinh viên Việt Nam học tập tại nước ngoài sau khi tốt nghiệp thường không về Việt Nam làm việc. Theo ông, đâu là lý do của hiện trạng này?
GS Trương Nguyện Thành: Tôi cho rằng, chỉ có một lý do và nó xuất phát từ quyền tự do căn bản của con người đó là quyền mưu cầu hạnh phúc cá nhân.
Khi con người có sự lựa chọn nơi làm việc thì họ sẽ lựa chọn nơi đem lại cho họ những hạnh phúc cá nhân nhiều nhất, trong đó có cơ hội phát triển cho mình.
Về Việt Nam chỉ là một trong những lựa chọn. Nếu quyết định không về điều này đồng nghĩa là họ có sự lựa chọn tốt hơn.
- Nhiềungười rằng môi trường làm việc và chế độ đãi ngộ chính là hai lý do lớn nhất khiến các du học sinh lựa chọn "đi" nhiều hơn "về". Ông nghĩ sao?
Tôi vừa làm xong một trưng cầu ý kiến trên Mạng Liên Kết Trí Thức Việt Toàn Cầu (International Vietnamese Academics Network) về vấn đề này.
Kết quả cho thấy hai yếu tố chính cho quyết định ‘ở’hay ‘về’ của một cá nhân đó là môi trường làm việc và chế độ đãi ngộ.
Theo tôi biết, các du học sinh trở về Việt Nam thì đa số làm cho công ty nước ngoài.
Điều này cho thấy các công ty nước ngoài đáp ứng được hai nhu cầu đó.
Doanh nghiệp tư nhân Việt Nam thì đa số vẫn còn vướng trong tư duy quản lý nhỏ lẻ nên không tạo được sân chơi lý tưởng cho những người tài năng. Trong khi đó, rất ít người trở về làm việc trong cơ quan nhà nước, trừ trường hợp các tiến sĩ nước ngoài về giảng dạy ở các trường đại học.
Vậy ông đánh giá thế nào về các chính sách thu hút và sử dụng nguồn nhân lực chất lượng cao (du học sinh, trí thức Việt kiều) về làm việc trong các cơ quan nhà nước hiện nay?
- Cơ quan nhà nước Việt Nam nếu muốn thu hút và sử dụng nguồn nhân lực chất lượng cao thì điều trước tiên cần phải hiểu rõ đối thủ cạnh tranh cho nguồn nhân lực đó là ai.
Nếu nguồn nhân lực này hiện tại còn ở nước ngoài thì đối thủ cạnh tranh sẽ là toàn cầu.
Còn nếu nguồn nhân lực này ở Viêt Nam (đã quyết định về Việt Nam vì một lý do nào đó) thì đối thủ cạnh tranh sẽ là doanh nghiệp nước ngoài.
Trước khi nghĩ đến chính sách ‘thu hút’ nguồn nhân lực hiện đang ở nước ngoài thì điều trước tiên cần phải chứng tỏ khả năng thu hút nguồn nhân lực này hiện ở trong nước.
Và nếu chú trọng vào nguồn nhân lực trong nước thì không cần phải phân biệt là du học hay đào tạo trong nước mà thước đo phải là tài năng của từng cá nhân được đánh giá bởi hiệu quả công việc.
Hiện tại, việc tuyển chọn nhân viên ở các cơquan nhà nước còn nặng nề với công thức nổi tiếng ‘Nhất hậu duệ, nhì quan hệ,và ba là tiền tệ’.
Trong khi đó tài năng là yếu tố duy nhất trong qui trình tuyểnchọn ở các công ty nước ngoài. Nếu muốn có người tài thì điều trước tiên là đưa yếu tố tài năng lên hàng đầu trong qui trình tuyển chọn.
Một khi có khả năng tuyển người tài thì cần có môi trường làm việc để họ có thể thi triển tài năng của họ.
Cơ chế hành chính nặng nề và trói buộc nhân viên là lý do các cơ quan nhà nướckhông thu hút được những người tài. Ảnh minh họa. |
Với kinh nghiệm làm việc trong cơ quan nhà nước tại Viện Khoa học và Công nghệ tính toán TP.HCM tuy được một số cơ chế đặcthù, tôi vẫn thấy rằng cơ chế hành chính ở các cơ quan nhà nước còn quá nặng nề và đang trói buộc nhân viên.
Chính những cơ chế này làm môi trường làm việc trở nên gò bó và nhàm chán. Do đó nó không thu hút được người tài mà chỉ thu hút người muốn ăn lương và hưởng lộc nhà nước.
Vậy từ quan điểm cá nhân, ông cho rằng nhà nước cần thực hiện những biện pháp nào để thu hút, sử dụng các du học sinh nước ngoài mà rộng hơn là các trí thức ViệtNam đang học tập và làm việc ở nước ngoài?
- Tôi nghĩ cần các biện pháp thu hút người tài chứ không nên phân biệt họ đang ở nước ngoài hay là người trong nước.
Tôi cho rằng, cần thực hiện ít nhất 3 biện pháp như sau:
Thứ nhất,đặt trọng tâm hàng đầu vào tài năng trong việc tuyển chọn nhân viên.
Thứ hai, cởi bỏ các cơ chế hành chính và quản lý đa chiều nặng nề ở các cơ quan nhà nước.
Thứ tư,có chế độ đãi ngộ tương ứng với hiệu quả công việc.
Không phải tới hiện tại việc thu hút nhân tài từ nước ngoài về nước mới được đặt ra. Theo GS, làm thế nào để những biện pháp sắp tới của Chính phủ có hiệu quảt hực sự?
- Hơn 10 năm nay tôi về Việt Nam thường xuyên nên biết Chính phủ đề cập đến vấn đề thu hút nhân tài từ nước ngoài hàng năm nhưng vẫn không đi đến đâu.
Cá nhân tôi cho rằng, Chính phủ nên học cách Nhât Bản, Đài Loan, Hàn Quốc trong việc thu hút nhân tài về giúp nước.
Các quốc gia này đi tìm những “con ong chúa” rồi tạo mọi điều kiện để những con ong chúa này phát triển thành những tổ ong.
Chính những "con ong chúa" này sẽ thu hút những con ong thợ. Muốn thu hút được những ong chúa này thì vấn đề không phải chỉ ở chế độ đãi ngộ mà là môi trường trong đó cho phép họ quyền quyết định xây dựng tổ ong như thế nào. Nói một cách khác, "trách nhiệm đi đôi với quyền lợi".
Tôi nghĩ, các biện pháp hiện nay phần lớn chỉ chú tâm đến chữ “Lợi” và bỏ quên chữ “Quyền”.
GS Ngô Bảo Châu từng phát biểu rằng: "Chất xám sẽ chạy về nơi chất xám muốn ở". Ông nhìn nhận thế nào về quan niệm này?
- Tôi hoàn toàn đồng ý.
Tôi vẫn thường nói "Đất lành chim đậu".Chính phủ không cần phải nghĩ đến việc trải thảm như thế nào để thu hút người tài mà nên nghĩ cách tạo đất (môi trường) cho tốt thì chim sẽ bay về đậu.
Người tài khi được đào tạo tốt thì có khả năng đánh giá cơ hội phát triển chính xác hơn.
Do đó, không một chính sách trải thảm nào có thể gạt được họ. Cho dù có gạt được thì họ cũng sẽ bỏ đi khi biết được sự thật.
Xin cảm ơn ông về cuộc trao đổi!
Đề xuất chính sách trong tháng 7 Trong thời gian qua, thực hiện chủ trương đẩy mạnh hội nhập quốc tế về giáo dục và đào tạo, nhiều học sinh, sinh viên đi học tập ở nước ngoài bằng các nguồn kinh phí khác nhau (từ ngân sách nhà nước, học bổng của Chính phủ và cơ sở đào tạo nước ngoài, tự túc kinh phí), trong đó nguồn kinh phí tự túc của gia đình người học là chủ yếu. Đây là nguồn nhân lực quan trọng cho phát triển đất nước. Tuy nhiên, học sinh, sinh viên học tập ở nước ngoài sau khi tốt nghiệp chưa phát huy tốt vai trò, khả năng của mình do chưa có các cơ chế, chính sách, giải pháp phù hợp nhằm khuyến khích, thu hút và sử dụng có hiệu quả nguồn nhân lực này. Vì vậy, Thủ tướng Chính phủ đã giao Bộ Giáo dục và Đào tạo chủ trì, phối hợp với Bộ Khoa học và Công nghệ và các bộ, ngành liên quan nghiên cứu tổng thể và đề xuất các cơ chế, chính sách, giải pháp thu hút, sử dụng có hiệu quả học sinh, sinh viên học tập ở nước ngoài sau khi tốt nghiệp đóng góp xây dựng đất nước; báo cáo Chính phủ trong phiên họp tháng 7/2016. (Theo Cổng Thông tin Điện tử Chính phủ) |
Trước đại dịch, thủ đô của Hà Lan luôn tràn ngập khách du lịch. Trong năm 2019, Amsterdam tiếp đón hơn 20 triệu lượt khách. Đại dịch Covid-19 kéo theo các hạn chế đi lại khiến lượng khách du lịch giảm đáng kể, cùng những lo ngại về giãn cách xã hội và mong muốn quản lý các điểm nóng trong tương lai đã trở thành động lực thúc đẩy thành phố áp dụng thử nghiệm công nghệ giám sát đám đông.
“Tôi đã tham gia vào một số dự án của thành phố trong 10 năm qua… và trong trường hợp này, chúng tôi phải giải quyết vấn đề đám đông. Thành phố đang ngày trở nên nổi tiếng và thực sự đông đúc”, Thomas Van Arman, nhà sáng lập và giám đốc TAPP, công ty thiết kế thành phố thông minh trụ sở tại Amsterdam, chia sẻ về dự án Public Eye.
Camera với các thuật toán trí tuệ nhân tạo (AI) ghi lại quy mô, mật độ và hướng di chuyển của đám đông. Dữ liệu được mã hoá, không thể tái cấu trúc và xuất hiện dưới dạng bản đồ nhiệt. Hiện sân Johan Cruyff Arena và bãi tắm ngoài trời nổi tiếng gần trung tâm thành phố, Marineterrein, là hai địa điểm đã áp dụng công nghệ này.
Tại Marineterrein, người đi bơi nếu có mong muốn không bị quay phim chụp hình, có thể bấm nút để kích hoạt chế độ tắt camera trong vòng 15 phút. Một ứng dụng trên điện thoại thông minh, cũng như màn hình lắp đặt trong khu vực, được xây dựng để thông báo cho du khách về mật độ dưới dạng bản đồ nhiệt. Các quan chức thành phố khẳng định giải pháp thông minh này đã góp phần bảo vệ an toàn và riêng tư của người dân.
Rachel Tienkamp, uỷ viên hội đồng thành phố cho biết: “Việc biết được vị trí đám đông giúp ích rất nhiều cho thành phố. Các dữ liệu giúp chúng tôi biết được cần phải làm gì trong trường hợp đám đông ngày càng lớn, ví dụ như hướng dẫn chuyển hướng giao thông cho mọi người”.
Hệ thống trên chỉ là một trong nhiều giải pháp thông minh đang được phát triển và sử dụng tại thủ đô của Hà Lan. “Amsterdam là thành phố cổ kính nhưng công nghệ ở khắp mọi nơi. Ví dụ, chúng tôi đang thử nghiệm các xuồng tự lái, cùng với máy bay không người lái, nhưng điều quan trọng nhất và mục đích cuối cùng là công nghệ được sử dụng một cách có trách nhiệm để thực sự bảo vệ quyền riêng tư và tự chủ của mỗi người”, Cornelia Dinca, từ ASC (dự án Amsterdam Smart City), cho biết.
Thành phố thông minh Amsterdam (ASC)
Quy hoạch thành phố thông minh ASC là một ví dụ điển hình về đối tác công tư. Triển khai từ năm 2009 với tiền thân là sáng kiến Amsterdam ngăn chặn kém phát triển (AIM) năm 2007, dự án ASC đã quy tụ được hàng trăm đối tác, gồm các công ty tư nhân, thể chế nhà nước, viện nghiên cứu và người dân nhằm tạo ra kế hoạch phát triển số hoá, năng lượng, di chuyển, kinh tế tuần hoàn, môi trường sống và dịch vụ công. ASC đặt mục tiêu giảm 40% khí thải CO2 vào năm 2025.
ASC được tạo ra nhằm biến khu vực đô thị trở thành vườn ươm ứng dụng rộng rãi các sản phẩm và dịch vụ sáng tạo, đồng bộ với nhu cầu thực tế của người dân. Một trong những điểm độc đáo của ASC là các hướng dẫn về phát triển và đầu tư không cố định, mà luôn được cập nhật thích ứng với tình hình, nhu cầu mới. Chỉ riêng năm 2018, đã có hơn 230 dự án xanh tiềm năng được thử nghiệm.
Dự án Groen Grachten, hay còn gọi là “những con kênh xanh”, nhằm cải tạo các kiến trúc cổ dọc kênh đào trong thành phố trở nên tiết kiệm năng lượng mà không ảnh hưởng đến di sản kiến trúc nói chung. Bằng cách sử dụng các pin nguyên liệu (fuel cells), các toà nhà cổ nay đã có nguồn điện riêng và có thể cắt giảm một nửa lượng CO2 phát thải.
Quy hoạch có kết cấu cho phép việc thử nghiệm có thể được tiến hành đối với từng khu phố. Alliander, nhà cung cấp năng lượng chính trong cả nước, đã ứng dụng mạng lưới điện thông minh, với các trang bị đồng hồ đo hiện đại và sử dụng tập trung tấm năng lượng mặt trời, từ đó giảm chi phí chi tiêu cho năng lượng của người dân.
Ánh sáng thông minh cũng được quan tâm đặc biệt tại Amsterdam. Các hãng Philips, Cisco và Alliander đã cùng bắt tay triển khai dự án ánh sáng thông minh tại thành phố thủ đô này. Ví dụ, ánh sang có thể tự động điều chỉnh theo thời tiết, hay tăng giảm độ sáng tuỳ vào tình trạng giao thông hay điều kiện nhất định. Năng lượng tiết kiệm sau đó có thể sử dụng cho các chức năng khác như phát song Wifi hoặc đo chất lượng không khí.
Nền kinh tế tuần hoàn
Nền kinh tế tuần hoàn hướng tới tái sử dụng nhiều nhất có thể các tài nguyên. Thành phố đã đặt ra các chỉ tiêu cụ thể: 65% chất thải gia đình phải được phân tách để tái tạo hoặc tái sử dụng vào năm 2025; giảm 50% việc sử dụng nguyên liệu thô vào năm 2030 và trở thành thành phố có nền kinh tế tuần hoàn 100% vào năm 2050.
Để hoạch định chính sách và xây dựng kế hoạch hành động cụ thể chuyển đổi kinh tế thành phố, Amsterdam sử dụng công cụ kỹ thuật số Circle City Scan, do tổ chức Circle Economy phát triển. Công cụ này, với các dữ liệu cả độc quyền và công khai, cho phép chính quyền địa phương rà soát và nhận diện các ưu tiên tuần hoàn trong từng khu vực cụ thể.
Power to Protein, dự án tái sử dụng nước thải thành phố, được áp dụng để lọc các protein thô từ cống nước thải và sau đó tạo ra bột protein. Quá trình này cần CO2, do đó đã biến nước thải trở thành một tài nguyên có giá trị. Ngay trong giai đoạn tiền dự án, ước tính chỉ cần một nhà máy xử lý đã có thể cung cấp lượng protein đủ cho 36% dân số của thành phố thông minh.
Không chỉ rác thải được tái sử dụng, tại đây ngay cả các toà nhà cũng có thể “tuần hoàn”. ABN AMRO, một ngân hàng của Hà Lan, đã cho xây dựng toà nhà tái sử dụng đầu tiên tại Amsterdam, với phần lớn nguyên vật liệu xây dựng đều có thể được tái chế và dễ dàng trong việc tháo dỡ.
50% người dân thế giới đang sinh sống tại các thành phố và dự báo tới năm 2050, con số này sẽ tăng lên 70%, tạo ra những áp lực không nhỏ đối với hệ thống cơ sở hạ tầng và môi trường sinh thái đô thị. Các thành phố sẽ ngày càng phải “thông minh hơn”, bền vững hơn để thích ứng với sự gia tăng dân số toàn cầu cũng như chống chịu tác động từ biến đổi khí hậu gây ra bởi chính con người.
Vinh Ngô
Các nhóm nông dân trong thành thị đã phát triển mô hình AbyFarm, sử dụng những công nghệ như IoT, blockchain và máy học để nâng cao năng suất trồng cây lương thực với một quỹ đất hạn chế của Singapore
" alt=""/>Amsterdam: Từ làng chài đến thủ đô sáng tạo của châu Âu