- Mỗi trường sẽ có ít nhất 2 lớp 10 sẽ học tiếng Anh theo sách giáo khoa mới từ năm học 2016 - 2017.Đó là kế hoạch mà Hà Nội triển khai đại trà bắt buộc tại 100% các trường THPT trên địa bàn. Thông tin được ông Chử Xuân Dũng, Phó Giám đốc Sở GD-ĐT Hà Nội đưa ra tại Hội thảo sách giáo khoa (SGK) tiếng Anh mới lớp 10 và 11 diễn ra ngày 16/8.
Mỗi trường ít nhất có 2 lớp
Mỗi trường có ít nhất 2 lớp 10 dạy SGK theo chương trình mới. Những lớp 10 còn lại tiếp tục dạy học theo SGK hiện hành. Các lớp 11 và 12 phải được tiếp tục dạy học lên theo đúng chương trình SGK.
 |
Thiết kế nội dung bên trong SGK tiếng Anh mới. |
Tiến tới từ năm học 2016-2020, Hà Nội sẽ triển khai 100% số lớp 10 trong các trường THPT trên địa bàn được học SGK tiếng Anh chương trình mới và học nối tiếp chương trình đến lớp 12.
Theo ông Dũng, chương trình mới với thời lượng dạy học tối thiểu 3 tiết/tuần theo các chủ điểm/chủ đề quen thuộc, gần gũi với học sinh; quan tâm đầy đủ 4 kỹ năng nghe, nói, đọc, viết với định hướng phát triển toàn diện. Đặc biệt đánh giá học sinh theo kết quả đầu ra.
Cụ thể, yêu cầu kết quả đạt được đối với từng lớp cấp THPT như sau:
Hết lớp 10, học sinh sẽ đạt trình độ tương đương B1.1.
Hết lớp 11, học sinh sẽ đạt trình độ tương đương B1.2.
Hết lớp 12, học sinh sẽ đạt trình độ tương đương B1.
Để đảm bảo kết quả học tập của học sinh đáp ứng yêu cầu về định hướng, mục tiêu, nội dung đầu ra của chương trình tiếng Anh cấp THPT, ông Dũng cho biết, việc kiểm tra đánh giá sẽ được tiến hành thường xuyên và định kỳ.
Kiểm tra thường xuyên chủ yếu dành cho kỹ năng nói. Học sinh được đánh giá thông qua các hoạt động trên lớp như trả lời các câu hỏi ngắn, miêu tả tranh, thuyết trình, hùng biện, hội thoại,... chú trọng định hướng giao tiếp và khả năng thực hiện các yêu cầu đàm thoại. Học sinh được đánh giá kỹ năng nói qua kiểm tra thường xuyên tối thiểu 2 lần/kỳ.
Kiểm tra định kỳ (45 phút) sẽ kiểm tra tích hợp các kỹ năng. Bài kiểm tra phải có ít nhất 2 dạng câu hỏi cho mỗi kỹ năng với định hướng đánh giá năng lực ngôn ngữ toàn diện của học sinh. Giáo viên căn cứ kế hoạch dạy học và chương trình chi tiết đã được phê duyệt lựa chọn thời điểm phù hợp để tiến hành kiểm tra định kỳ cho học sinh. Không tổ chức kiểm tra định kỳ quá sớm, quá muộn hoặc quá sát nhau trong học kỳ.
Bài kiểm tra học kỳ dành cho các kỹ năng nghe, nói, đọc, viết và có từ 35 đến 60 câu hỏi.
Giáo viên được chủ động, linh hoạt
Theo ông Dũng, để phát huy những điểm mạnh của SGK tiếng Anh theo chương trình mới, giáo viên cần vận dụng linh hoạt nội dung trong SGK, tăng cường sử dụng các thiết bị trong dạy học, ứng dụng công nghệ thông tin trong soạn giáo án và trong giảng dạy nhằm giúp học sinh sử dụng hiệu quả các kênh hình ảnh, âm thanh đa phương tiện kết hợp hài hòa với các phương pháp truyền thống để tiếp thu kiến thức và luyện tập các kỹ năng đảm bảo chất lượng.
Ngoài SGK, giáo viên có thể sử dụng các tài liệu khác để bổ trợ cho bài giảng dựa trên các tiêu chí quy định trong chương trình khung do Bộ GD-ĐT ban hành nhưng phải lưu ý dạy hết kiến thức trong SGK theo quy định trước khi bổ sung tài liệu bổ trợ. Đặc biệt không được tự ý dùng tài liệu bổ trợ để thay thế SGK.
Những giáo viên lần đầu tiên dạy SGK tiếng Anh lớp 10 theo chương trình mới được giảm số giờ với định mức: 1 tiết dạy chương trình SGK tiếng Anh mới tương đương 1,5 tiết thông thường.
Số tiết vượt định mức sau khi quy đổi được thanh toán thừa giờ theo quy định hiện hành. Tuy nhiên, mỗi giáo viên dạy theo SGK chương trình mới chỉ được tính giảm số giờ trong 1 năm duy nhất.
Giáo viên soạn giáo án mới có thể viết tay hoặc đánh máy.
Ngoài ra, các trường học cần phải đảm bảo đủ thiết bị dạy học tối thiểu (Đài, máy chiếu, màn chiếu,... cho giáo viên tiếng Anh) tổ chức dạy học đạt chất lượng cả 4 kỹ năng nghe, nói, đọc, viết.
" alt="Hà Nội dùng sách tiếng Anh lớp 10 mới từ năm học 2016"/>
Hà Nội dùng sách tiếng Anh lớp 10 mới từ năm học 2016


1. Đọc sách
Bạn đọc và học càng nhiều thì tâm trí bạn càng mở mang, bạn càng thông minh và khôn ngoan hơn. Trẻ cũng nên được dạy rằng học tập không chỉ là đọc sách giáo khoa. Có nhiều cách để học. Cha mẹ hãy khuyến khích trẻ cởi mở và tiếp thu những bài học từ cuộc sống (cả tích cực và tiêu cực) và cha mẹ nên là tấm gương cho trẻ.
2. Chơi chung với bạn
Thế giới ngày nay đã trở thành một ngôi làng toàn cầu. Giá trị của làm việc nhóm và chấp nhận sự khác biệt của người khác là không phải bàn cãi. Hãy khuyến khích trẻ chơi chung, làm việc cùng người khác trong khi hướng đến mục đích chung. Bằng cách này, bạn sẽ dạy cho trẻ cách nhìn bao dung với những quan điểm khác nhau.
3. Giải quyết bất đồng một cách thân thiện
Bất đồng là không thể tránh khỏi trong cuộc sống, đặc biệt là trong thế giới đầy cạnh tranh ngày nay. Cha mẹ nên khuyến khích trẻ thở sâu, cân nhắc tất cả khía cạnh của vấn đề và đặt những câu hỏi như “tại sao”, “nếu mà”. Bằng cách đó, trẻ sẽ tập trung vào vấn đề, chứ không phải vào con người, và trẻ sẽ dễ dàng kiểm soát những cảm xúc nguy hiểm như tức giận.
4. Nói lên ý kiến của mình
Hãy để trẻ biết rằng cha mẹ sẽ không phải lúc nào cũng ở đó để bảo vệ chúng. Hãy khuyến khích trẻ lên tiếng vì bản thân, nói ra những gì mình nghĩ một cách mạnh dạn, với thái độ tôn trọng. Khả năng lên tiếng vì bản thân (hoặc vì người khác) để giao tiếp hiệu quả là một trong số những kỹ năng giá trị nhất mà bất cứ ai cũng có thể sở hữu trong thế giới hiện đại. Bạn nên sớm dạy trẻ kỹ năng này.
5. Biết xin lỗi khi sai và biết tha thứ khi người khác làm sai
Trẻ nên biết rằng ai cũng có thể mắc lỗi, nhưng tha thứ có thể làm lành những lỗi lầm tồi tệ nhất. Không phải xấu hổ khi xin sự tha thứ hay khi tha thứ cho người khác. Ngược lại, tha thứ và xin được tha thứ là dấu hiệu của lòng dũng cảm. Hãy khuyến khích trẻ nuôi dưỡng thái độ này và bỏ qua những sai lầm, tổn thương mà người khác gây ra.
6. Tử tế vô điều kiện và giúp đỡ những người kém may mắn
Thể hiện lòng tốt vô điều kiện không chỉ là một hành động ngọt ngào mà còn là cách dễ nhất để chạm vào cuộc sống. Hãy khuyến khích trẻ thể hiện lòng tốt và giúp đỡ người khác nếu có thể.
7. Giữ thái độ tích cực và nhìn vào mặt lạc quan của cuộc sống
Cuộc sống không phải lúc nào cũng đầy ánh sáng và cầu vồng, nhưng cũng không phải lúc nào cũng tối tăm, buồn chán. Cuộc sống là sự hòa quyện giữa những trải nghiệm tốt và xấu. Nếu bạn tập trung vào mặt tích cực của cuộc sống nhiều hơn mặt tiêu cực, cuộc sống sẽ không tệ chút nào. Hãy khuyến khích trẻ giữ thái độ lạc quan, lan tỏa niềm vui từ những điều nhỏ bé trong cuộc sống.
8. Bảo vệ môi trường và chăm sóc động vật
Bạn nên cho trẻ biết rằng con người chỉ có một hành tinh để sinh sống. Vì thế, chúng ta cần bảo vệ và chăm sóc nó. Điều đó có nghĩa là hãy chăm sóc cây cỏ, động vật, môi trường tự nhiên xung quanh ta. Khuyến khích trẻ cho chim ăn, dắt chó đi dạo, tưới cây. Bằng cách này, trẻ sẽ trở nên có ý thức bảo vệ hành tinh này.
9. Đánh răng, dùng chỉ nha khoa và gọn gàng
Trẻ cần biết cách làm sạch răng miệng từ khi còn nhỏ. Hãy khuyến khích, thậm chí là khen thưởng khi trẻ có hành vi chăm sóc sức khỏe tốt.
10. Yêu thương vô điều kiện
Yêu thương là đức hạnh lớn nhất trong số tất cả. Tất cả mọi thứ đều xoay quanh tình yêu thương. Nếu không có tình yêu thương, mọi thứ sẽ sụp đổ. Hãy dạy trẻ yêu thương chính mình, yêu thương người khác không phải vì việc họ làm, mà là vì họ là ai. Khi trẻ đủ lớn, hãy cho trẻ biết tầm quan trọng của tình yêu và quan hệ tình dục an toàn. Có thể không thoải mái nhưng đừng quên dạy trẻ cách sắp xếp và nói “không” với những kẻ đang sử dụng hay lạm dụng tình dục.
- Nguyễn Thảo(Theo Life Hack)
" alt="10 kỹ năng sống cha mẹ nào cũng phải dạy con"/>
10 kỹ năng sống cha mẹ nào cũng phải dạy con
Những năm gần đây, các cuộc tranh luận trên mạng Internet của người Việt trở nên sôi nổi khác thường. Dường như sự sôi nổi của các cuộc tranh luận ấy với sự tham gia đông đảo của nhiều người thuộc nhiều nhóm tuổi, nghề nghiệp có gì đó rất khác với cuộc sống phẳng lặng nặng chuyện áo cơm thường ngày. Cuộc tranh luận sổi nổi xung quanh ý kiến của PGS.TS Đoàn Lê Giang về việc đưa chữ Hán-Nôm vào dạy trong trường phổ thông là một cuộc tranh luận như thế.Một cuộc tranh luận sôi nổi
Có lẽ bản thân PGS.TS Đoàn Lê Giang và cả những nhà chuyên môn khác tham gia hội thảo cũng không ngờ rằng ý kiến về chuyện đưa chữ Hán-Nôm vào giảng dạy trong trường phổ thông lại được công chúng quan tâm đến thế.
 |
PGS. TS Đoàn Lê Giang, tác giả của ý kiến gây "bão" dư luận những ngày qua. Ảnh: Lê Văn. |
Thông thường, những cuộc hội thảo chuyên môn thường chỉ có từ vài chục đến trên dưới trăm người tham gia và thảo luận. Kỉ yếu của hội thảo được in và tặng cho những người tham dự với số lượng rất hạn chế. Ngoài những người tham gia hội thảo, sẽ không có nhiều người đọc những bài được đăng trong đó hoặc nếu có thì số lượng cũng rất nhỏ.
Tuy nhiên, khi truyền thông đại chúng đưa tin về Hội thảo và ý kiến của PGS.TS Đoàn Lê Giang với những tiêu đề đầy… “khiêu khích” và người dùng các trang mạng xã hội chia sẻ lại những bài viết này, cuộc tranh luận đã bùng nổ dữ dội.
Theo quan sát của tôi trong cuộc tranh luận này những người ủng hộ đa phần là những người biết ít nhiều chữ Hán, chữ Nôm hoặc cả hai trong khi ở phía những người phản đối dường như có rất ít người có thể đọc được chữ Hán và chữ Nôm.
Một điểm đáng chú ý nữa là trong cuộc tranh luận ồn ào này, sự xuất hiện công khai của các nhà nghiên cứu Hán-Nôm trên phương tiện truyền thông đại chúng rất thưa thớt. Nhiều nhà nghiên cứu cao niên có tên tuổi và cả những nhà nghiên cứu trẻ có những thành tựu đáng chú ý những năm gần đây dường như đều đứng ngoài cuộc tranh luận.
Thông thường Hán-Nôm vốn là lĩnh vực chuyên môn khá hẹp ở Việt Nam. Vậy thì tại sao lần này, cuộc hội thảo và cụ thể hơn là ý kiến về việc đưa chữ Hán-Nôm vào trường phổ thông lại thu hút sự quan tâm lớn đến như thế?
Có nhiều nguyên nhân nhưng có lẽ nguyên nhân chủ yếu nhất nằm ở chỗ ý kiến của PGS.TS Đoàn Lê Giang đã “động nhân tâm” và gợi đến rất nhiều liên tưởng, trong đó có cả những liên tưởng và suy diễn vượt xa khỏi ý tưởng và câu chữ của người đưa ra ý kiến trong hội thảo.
Sự phản ứng của công chúng với ý kiến đề nghị đưa chữ Hán-Nôm vào trong trường học không chỉ là thuần túy là sự phản đối một ý tưởng giáo dục.
Nhiều người phản đối (tất nhiên không phải là tất cả) đã phản ứng mạnh mẽ trong sự liên tưởng đến những vấn đề đang ngày một trầm trọng của đất nước như: chủ quyền quốc gia vị đe dọa và xâm hại, sự “xâm lăng” tinh vi và toàn diện trong lĩnh vực văn hóa, những yếu kém của nền giáo dục, tình trạng thật giả lẫn lộn trong khoa học…
Chính sự phản ứng mạnh mẽ xuất phát từ tình cảm và sự liên tưởng ấy đã dẫn dắt cuộc tranh luận trên các trang mạng xã hội rời xa khỏi vấn đề mà PGS.TS Đoàn Lê Giang đề ra: đề xuất giảng dạy chữ Hán-Nôm trong trường học.
Trong bản tham luận của mình, tác giả cũng chỉ mới phác ra ý tưởng về việc giảng dạy Hán-Nôm ở trường phổ thông ở mức rất thận trọng nhưng khi tranh luận và phê phán, nhiều người đã mặc định như thể đó đã trở thành một chủ trương-chính sách lớn, sẽ được thực hiện đại trà trên tất cả các trường học và Hán-Nôm rồi đây sẽ trở thành bộ môn bắt buộc dành cho tất cả các học sinh ở phổ thông.
Có người suy diễn xa hơn khi cho rằng đây là chủ trương đưa chữ Hán-Nôm vào thay thế cho tiếng Anh trong nhà trường!? Thậm chí có cả những ý kiến cho rằng rồi đây chữ Hán-Nôm sẽ thay thế cho chữ Quốc ngữ và như thế là “quay lùi bánh xe lịch sử?”….
Chính vì thế mà từ chỗ phản đối, nhiều người tham gia tranh luận trên các trang mạng xã hội đã phê phán và chỉ trích quá đà khi công kích cá nhân người đưa ra đề nghị trên bằng những lời lẽ rất nặng nề.
Đấy là một sự không công bằng đối với người đã phát biểu trong hội thảo. Khi cuộc tranh luận và sự phê bình, chỉ trích diễn ra theo hướng đó, nó giống như một trận đấu võ không có trọng tài mà một bên là “nhà chuyên môn” thi đấu theo thể thức của môn “boxing” trong khi các “đối thủ” thì tấn công bằng các đòn thế của “võ tự do”.
Những gì còn lại sau tranh luận
Cho dẫu có xu hướng đi ngày một xa khỏi ý kiến ban đầu của PGS.TS Đoàn Lê Giang, cuộc tranh luận nói trên cũng đặt ra rất nhiều vấn đề cần tiếp tục suy nghĩ cho cả giới chuyên môn và công chúng.
Thứ nhất là vấn đề làm thế nào để chữ Hán-Nôm và những văn bản cha ông viết bằng thứ chữ đó tiến gần lại hơn với công chúng? Cuộc tranh luận đã làm rõ thêm rằng trên thực tế nhận thức của một bộ phận công chúng về chữ Hán, chữ Nôm và di sản được ghi lại bằng thứ chữ đó rất hạn chế.
 |
Hoạt động ngoại khóa của một lớp học chữ Hán ngoài nhà trường. Ảnh: FB Nguyễn Sử. |
Rất nhiều người nhầm tưởng chữ Hán và chữ Nôm, thứ chữ cha ông chúng ta đã dùng suốt hơn nghìn năm để viết nên những tác phẩm văn học, lịch sử nổi tiếng và được đưa vào trong chương trình học tập ở trường phổ thông từ trước đến nay đồng thời cũng là tiếng Trung hiện đại, ngôn ngữ mà người Trung Quốc đang sử dụng. Trách nhiệm giải quyết vấn đề này có một phần không nhỏ thuộc về các nhà nghiên cứu và giảng dạy Hán-Nôm.
Thứ hai, người Việt chúng ta cần có thái độ và tư thế như thế nào trong việc tiếp nhận, kế thừa và nghiên cứu những di sản văn hóa mà các thế hệ đi trước để lại cũng như tiếp nhận tinh hoa văn hóa của thế giới để hội nhập vào thế giới văn minh?
Liệu rằng sự tiếp nhận và kế thừa di sản văn hóa của cha ông có mâu thuẫn với việc giao lưu và hội nhập vào thế giới văn minh?
Những ý kiến tranh luận thể hiện sự đối lập gay gắt giữa việc học Hán-Nôm với học các thứ tiếng như Anh, Pháp… phần nào thể hiện trong vô thức sự lúng túng của người Việt khi đứng trước những giá trị của Đông và Tây.
Thứ ba, cuộc tranh luận được đẩy đi rất xa và rộng với nhiều vấn đề khác nhau đã đặt ra cho tất cả người Việt quan tâm đến vận mệnh của dân tộc một câu hỏi: chúng ta là ai và chúng ta sẽ thế nào?
Như một quy luật tất yếu, khi Việt Nam ngày càng hội nhập sâu vào thế giới và chia sẻ các giá trị phổ quát của nhân loại, nhu cầu khám phá, làm rõ quá khứ và tìm lại cội nguồn sẽ ngày một trở nên mạnh mẽ.
Tái xác nhận “Identity” sẽ trở thành một nhu cầu tự thân của mỗi cá nhân và của cả cộng đồng. Trong quá trình ấy, quá khứ nói chung và di sản Hán-Nôm sẽ có vai trò lớn.
Khi nhìn ở phạm vi rộng lớn như thế, cả ý kiến đề nghị đưa Hán-Nôm vào giảng dạy trong trường học và những ý kiến phản đối mạnh mẽ thực ra đều thể hiện nhu cầu định vị lại chính bản thân mình và cộng đồng mà mình quy thuộc vào.
Sau một thời gian ồn ào, cuộc tranh luận rồi cũng sẽ lắng xuống. Nhiều người khi bình tĩnh lại sẽ nhận ra nhiều ý kiến chỉ trích đã “đi quá đà”.
Với riêng tôi, ý kiến đề nghị của PGS.TS Đoàn Lê Giang trong tư cách một nhà nghiên cứu là rất bình thường. Chuyện tranh luận hay phản bác lại ý kiến của ông cũng là chuyện bình thường vì không phải mọi dẫn chứng và lập luận ông đưa ra đều hoàn toàn hợp lý.
Chẳng hạn, nếu như ông đưa ra dẫn chứng học sinh Nhật Bản có phân môn tự chọn là Cổ điển trong môn Quốc ngữ ở bậc học Trung học phổ thông để kế thừa và nghiên cứu di sản của cha ông sẽ thuyết phục hơn chuyện học sinh Nhật phải học bắt buộc một số lượng chữ Hán ở từng cấp học bởi vì tiếng Nhật hiện đại vẫn phải dùng đến các chữ Hán đó.
Tất nhiên, cho dù ủng hộ ông về ý tưởng, tôi vẫn không mấy lạc quan về tương lai của ý tưởng đó khi nó được thực hiện trong thực tế khi chữ Hán-Nôm được đưa vào trường học cho dù chỉ là môn tự chọn hay sinh hoạt câu lạc bộ.
Nếu như nền giáo dục hiện tại không được cải cách một cách cơ bản thì cho dù đưa vào bất cứ một nội dung mới nào, nó cũng sẽ thất bại. Chất lượng của các môn học hiện hành, chẳng hạn như môn Văn hay Lịch sử đủ để dự đoán kết quả ấy.
Tất nhiên, tranh luận và phản đối khác với mạt sát và công kích cá nhân. Sẽ rất thiếu công bằng đối với cá nhân PGS.TS Đoàn Lê Giang và không có ích gì thêm cho cộng đồng người Việt nếu như cuộc tranh luận chỉ dựa trên những suy diễn.
Có lẽ trải qua một thời gian dài, người Việt không có nhiều cơ hội và không gian để tranh luận thoải mái vì thế khi mạng internet đột ngột đem lại điều ấy, người Việt chúng ta đã sôi nổi tranh luận mà chưa quen với những nguyên tắc và kĩ năng tranh luận. Để có nó, có lẽ người Việt cần cả đến thời gian và sự tự thân nỗ lực của mỗi người.
Nguyễn Quốc Vương
" alt="Điều còn lại sau cuộc tranh luận 'đưa chữ Hán vào trường học'"/>
Điều còn lại sau cuộc tranh luận 'đưa chữ Hán vào trường học'